Theo Bộ luật Lao động, thời giờ làm việc bình thường là không quá 8 giờ trong 1 ngày và không quá 48 giờ trong 1 tuần. Tuy nhiên, người sử dụng lao động có thể thỏa thuận với người lao động về việc làm thêm giờ.
Việc làm thêm giờ được quy định tại Điều 107 Bộ luật Lao động và hướng dẫn thi hành tại các điều 59, 60, 61, 62 Nghị định 145/2020/NĐ-CP.
Theo Điều 59 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, khi tổ chức làm thêm giờ, người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người lao động tham gia làm thêm về thời gian, địa điểm và công việc.
Điều 60 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định giới hạn số giờ làm thêm. Theo đó, tổng số giờ làm thêm không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày khi làm thêm vào ngày làm việc bình thường.
Trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày.
Trường hợp làm việc không trọn thời gian thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày.
Khi làm thêm vào ngày nghỉ lễ, tết và ngày nghỉ hằng tuần, tổng số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày.
Bộ luật Lao động cũng quy định rõ giới hạn thời gian làm thêm trong 1 tháng là không quá 40 giờ, trong 1 năm là không quá 200 giờ.
Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động làm thêm vượt quá 200 giờ/năm (nhưng không quá 300 giờ trong 1 năm) trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp đặc thù được pháp luật quy định rõ.
Khi tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong 1 năm, người sử dụng lao động phải thông báo cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tại nơi tổ chức làm thêm và nơi đặt trụ sở chính của đơn vị (nếu nơi đặt trụ sở chính khác với nơi tổ chức làm thêm).
Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ vào bất kỳ ngày nào mà không bị giới hạn về số giờ làm thêm và người lao động không được từ chối.
Những trường hợp đặc biệt trên được quy định tại Điều 108 Bộ luật Lao động.
Thứ nhất là trường hợp thực hiện lệnh động viên, huy động bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là thực hiện các công việc nhằm bảo vệ tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm và thảm họa (trừ trường hợp có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người lao động theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động).
Tin tức An sinh xã hội, thông tin đào tạo việc làm