Tin tức An sinh xã hội, thông tin đào tạo việc làm
Tiến sĩ dược mỹ phẩm về nước, tiền kiếm được… sàn sàn bạn học ở lại Mỹ
Lưu Xuân Cường lấy bằng thạc sĩ tại Đài Loan (Trung Quốc), bằng tiến sĩ kỹ thuật hóa học tại Đại học Oklahoma Mỹ khi 29 tuổi. Hiện ông là Viện trưởng Viện đào tạo và phát triển công nghệ hóa dược (IMTAT), Trưởng khoa Hóa – Thực phẩm trường Cao đẳng Bách khoa Sài Gòn.
Ngoài công tác giảng dạy, TS. Cường còn là Giám đốc công ty cổ phần quốc tế AoTa, hình mẫu về công ty khởi nghiệp từ nghiên cứu trong trường đại học, là câu chuyện của nhà khoa học sau khi được đào tạo bài bản từ các nước phát triển trở về công tác tại các viện, trường đại học Việt Nam.
Ông về nước lập nghiệp (năm 2019) để cùng chia sẻ khát vọng mang thứ học được về tạo nên những sản phẩm có giá trị cao, mang thương hiệu Việt.
Dân trí có cuộc trao đổi với TS. Lưu Xuân Cường về lựa chọn và hành trình về nước khởi nghiệp của ông cũng như của thế hệ kỳ lân “đi để trở về” hiện nay.
So cơ hội lập nghiệp ở Việt Nam và Mỹ
Thưa tiến sĩ Lưu Xuân Cường, ông lấy bằng tiến sĩ tại Mỹ từ năm 29 tuổi và có cơ hội làm việc tại đây. Vì sao ông lại lựa chọn trở về Việt Nam lập nghiệp?
LỜI TÒA SOẠN
Việt Nam hiện có khoảng 40.000 người đi du học nước ngoài mỗi năm, số lượng cao gấp 2,5 lần giai đoạn trước 2013. Việt Nam cũng là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về số du học sinh. Đây luôn được xác định là nguồn nhân lực chất lượng, tiềm năng với đất nước.
Thực tế, ngày càng có nhiều du học sinh chọn trở về vì nhìn thấy những cơ hội, triển vọng tốt, khả năng khởi nghiệp tại Việt Nam.
Dân trí thực hiện loạt bài viết “Thế hệ kỳ lân “đi để trở về” phản ánh xu hướng ngày càng phổ biến này và bài toán thu hút, tận dụng, phát huy thế mạnh của nguồn nhân lực được kỳ vọng “về để làm chủ” này.
– Dư luận hay nêu về vấn đề du học sinh Việt nên về hay nên ở, khai thác các khía cạnh như du học sinh về nước thì làm việc gì, ở lại thì được gì, rồi chia ra làm 2-3 phe tranh luận.
Người khác thế nào không biết, nhưng đối với bản thân tôi, khi lựa chọn sự nghiệp, công việc thì tôi cân nhắc ba yếu tố.
Thứ nhất là giá trị. Mỗi người có định nghĩa khác nhau nhưng với tôi, giá trị có nghĩa là công việc lựa chọn mang lại lợi ích gì cho xã hội, sau này khi già, mình có thể khoe gì với con cháu.
Thứ hai là hiệu quả, đơn giản là tính bằng tiền. Quan trọng nhất là công việc đó tạo ra bao nhiêu tiền. Có thể công việc đó ban đầu chưa mang lại nhiều tiền nhưng tiềm năng sẽ có nhiều tiền tôi mới lựa chọn.
TS. Lưu Xuân Cường chia sẻ nhiều về mô hình thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu từ phòng thí nghiệm (Ảnh: NVCC).
Yếu tố thứ ba là niềm vui khi làm việc. Tôi không thể làm công việc chán quá, hợp tác với những người mình không hài lòng, có hiềm khích lẫn nhau…
Niềm vui cũng có thể tích hợp trong hai yếu tố giá trị và hiệu quả. Khi đóng góp được gì đó cho xã hội, vui lắm chứ. Công việc đem về nhiều tiền cũng vui. Chứ không phải cứ hô hào cống hiến cho đất nước, mang lại nhiều giá trị xã hội mà công việc không hiệu quả. Không đem được tiền về cho vợ, bị vợ đuổi ra khỏi nhà thì làm sao vui nổi (cười).
Vì vậy, khi lựa chọn giữa hai con đường, ở lại nước ngoài làm việc hay về nước lập nghiệp, tôi cân nhắc trên ba yếu tố đó. So sánh ba yếu tố đó trong mối tương quan về năng lực của mình, tôi thấy về Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn là ở lại Mỹ làm việc.
Cụ thể, ông nhìn thấy cơ hội gì tại Việt Nam thời điểm quyết định về nước? Nếu nói điều kiện làm việc trong nước ưu việt hơn, lợi thế hơn tại Mỹ có lẽ nhiều người sẽ nghi hoặc?
– Với nhóm ngành nghiên cứu kỹ thuật như chúng tôi, kiến thức học được là quốc tế nhưng ứng dụng là phải giải quyết vấn đề mang tính thực tế tại địa phương. Nếu ở Mỹ, tôi phải nghiên cứu các sản phẩm có tính ứng dụng cao, giải các bài toán sản xuất tại Mỹ. Trong khi đó, đây là thị trường sản xuất ứng dụng công nghệ rất cao, cạnh tranh rất lớn.
Còn về Việt Nam, với kiến thức của mình, tôi có rất nhiều việc để làm và có thể dễ mang lại thành công hơn. Như vậy, môi trường khởi nghiệp trong nước có nhiều yếu tố phù hợp với bản thân tôi hơn.
Học và nghiên cứu ở lĩnh vực “thời thượng” là dược mỹ phẩm mà ông lại đánh giá ở Việt Nam thuận lợi, phù hợp hơn với việc ứng dụng, phát triển công nghệ sao, thưa ông. Chắc hẳn việc xác định ba yếu tố để quyết định trở về không đơn giản, dễ thấy, dễ nhìn?
– Ở Việt Nam, tôi thấy thế mạnh về nông sản và cây dược liệu. Thế mạnh đó chưa đem lại doanh thu cao vì công nghệ sản xuất, chế biến còn hạn chế, nông dân chỉ bán sản phẩm thô. Tôi có thể sử dụng kiến thức kỹ thuật hóa chất của mình để nghiên cứu quy trình phân tách, chiết xuất các hoạt chất có trong cây dược liệu để ứng dụng sản xuất các sản phẩm dược phẩm, thực phẩm, hóa mỹ phẩm…
Đây là thị trường không chỉ có khả năng mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp mà còn làm tăng giá trị nông sản, cây dược liệu của Việt Nam. Nếu có thể phân phối ra thị trường nước ngoài thì còn có thể đạt lợi nhuận cao hơn, thu được nhiều ngoại tệ hơn về cho đất nước.
Khi mới về Việt Nam, tôi tham gia công tác giảng dạy tại một trường đại học, phụ trách một khoa, xây dựng quy trình đào tạo, nghiên cứu mô hình cho sinh viên học thực hành bằng các hoạt động tương tự hoạt động nghiên cứu, sản xuất pilot của doanh nghiệp tại phòng thí nghiệm.
Mà để làm được chuyện đó thì phòng thí nghiệm phải có nguồn thu, bán sản phẩm để bù chi phí mua nguyên vật liệu thí nghiệm, sinh viên được thí nghiệm nhiều hơn, học kiến thức nhanh hơn và kỹ năng giỏi hơn… Đó là giá trị.
Ban đầu, giá trị đó mang lại niềm vui cho bản thân tôi nhưng chưa mang lại hiệu quả kinh tế, vì có nghiên cứu mô hình đó hay không thì lương tôi lãnh vẫn vậy.
Do đó, tôi thành lập công ty cổ phần quốc tế Aota để chuyển những kết quả nghiên cứu được trong phòng thí nghiệm thành sản phẩm thương mại, tổ chức quy trình sản xuất rồi phân phối, bán hàng. Từ đó tôi thu được lợi nhuận, mang lại hiệu quả cho bản thân.
Trình độ sản xuất chỉ cần nhân lực… cao đẳng
Từ bản thân, ông nhận định thế nào về việc ngày càng có nhiều du học sinh Việt Nam, cả những người xuất sắc, học ở những trường danh tiếng nhất, những ngành học tốt nhất, không ít cơ hội tham gia thị trường lao động chất lượng ở các nước phát triển… vẫn lựa chọn trở về? Như ông nói, có các yếu tố cá nhân dẫn tới lựa chọn này?
– Nói chung, du học sinh quyết định ở lại nước ngoài làm việc hay về nước là phụ thuộc vào nhiều yếu tố cá nhân. Lứa bạn cùng học thạc sĩ với tôi ở Đài Loan hầu hết đều về nước nhưng nhóm bạn tiến sĩ ở Mỹ đa phần đều ở lại đó làm việc.
Tuy nhiên, trong phạm vi hiểu biết của tôi, đúng là những người có trình độ tiến sĩ gần đây về nước khá nhiều. Đó là nhờ những đột phá trong môi trường giáo dục với những trường đại học chất lượng, nhất là chính sách xếp hạng đại học, coi trọng tiêu chí đánh giá bài báo khoa học quốc tế. Việc đó mở ra sân chơi mới cho các tiến sĩ “Tây học” về nước.
Chính sách đột phá đó đã tạo môi trường làm việc phù hợp và mức thu nhập tạm chấp nhận được cho các tiến sĩ khoa học, những nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài, để họ có thể yên tâm trở về Việt Nam. Trong mạng lưới quan hệ của tôi, có rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp quyết định quay về vì tìm được môi trường như vậy.
Những người có trình độ tiến sĩ gần đây về nước khá nhiều. Đó là nhờ những đột phá trong môi trường giáo dục với những trường đại học chất lượng, mở ra sân chơi mới cho các tiến sĩ “Tây học” về nước.
Vẫn như ông nói, môi trường làm việc tại các viện, trường đại học có thể thỏa mãn yếu tố giá trị, niềm vui với những người làm nghiên cứu. Nhưng còn yếu tố hiệu quả thì sao, nếu không “chạy hai chân” như ông, vừa giảng dạy, vừa quản lý, điều hành doanh nghiệp thì cuộc sống với những nhân tài chọn trở về có thỏa đáng?
– Ở môi trường doanh nghiệp, bản thân tôi đánh giá, trình độ sản xuất của đại đa số doanh nghiệp Việt Nam có khả năng hấp thụ lao động trình độ cao rất thấp. Không biết các ngành khác thế nào, chứ ngành hóa dược phẩm hiện chỉ cần lao động trình độ cao đẳng là nhiều, rất khó hấp thu lao động trình độ cao hơn.
Lao động trình độ cao thường chỉ tìm kiếm được việc làm ở những công ty FDI (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Trình độ sản xuất tại khu vực này mới có khả năng hấp thu lượng lớn lao động trình độ cao hơn cao đẳng.
Thực tế, khả năng hấp thu của thị trường lao động thấp cũng là một trong những lý do mà rất nhiều du học sinh không lựa chọn về nước vì về nước làm việc không mang lại hiệu quả cho bản thân, cộng đồng và về cũng không biết làm gì…
Nhiều sản phẩm được công ty AoTa đưa ra thị trường là kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm (Ảnh: NVCC).
Lương 5.000-10.000 USD/tháng đủ hút du học sinh về nước
Vậy còn về môi trường khởi nghiệp, như việc tự đứng ra thành lập doanh nghiệp như ông đã làm thì sao? Thực tế, nhiều tổ chức quốc tế đã dự báo về một thế hệ nhân lực xuất sắc trở về tạo nên những “doanh nghiệp kỳ lân” tại Việt Nam, thưa ông?
– Thực sự, với nhóm nhân lực trình độ tiến sĩ, công việc của họ chủ yếu đến từ khối giáo dục, nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp ở lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật mới mẻ, đón đầu.
Còn doanh nghiệp sản xuất mới là nhóm có khả năng hấp thu nhân lực lớn, quyết định khả năng du học sinh lựa chọn về hay ở. Doanh nghiệp Việt có tiền rất nhiều và hiện nhiều đơn vị cũng có mơ ước vươn ra thế giới, cạnh tranh toàn cầu nên bắt buộc phải đầu tư cho kỹ thuật, công nghệ cao và cần nguồn nhân sự chất lượng cao. Phải có rất nhiều doanh nghiệp như vậy, khả năng hấp thu nhân lực trình độ cao mới tăng nhiều.
Vậy nên du học sinh về nước cũng cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách ưu tiên cho ngành nào trước, ngành nào sau, nhiều ít ra sao.
Doanh nghiệp sản xuất mới là nhóm có khả năng hấp thu nhân lực lớn, quyết định khả năng du học sinh lựa chọn về hay ở.
Các báo cáo nghiên cứu thị trường lao động gần đây cho thấy các doanh nghiệp tại Việt Nam đang trả cho nhân sự kỹ thuật, quản lý mức lương 5.000-10.000 USD/tháng. Về tiêu chí hiệu quả như ông nói, mức lương này có đủ để thu hút “nhân lực kỳ lân” về nước làm việc?
– Về thu nhập, tiền tôi kiếm được cũng như các bạn lựa chọn ở lại Mỹ thôi. Tôi chưa bị vợ đuổi ra khỏi nhà cho thấy hiệu quả công việc vẫn tốt (cười lớn).
Còn với mức lương 5.000-10.000 USD/tháng mà nhiều doanh nghiệp đang trả, tôi cho là đủ sức thu hút nhân lực du học trở về nước làm việc. Tuy nhiên, mức lương này chỉ được trả cho một số ít vị trí quản lý cấp trung, cấp cao tại các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI, số lượng không nhiều.
Mà với nhân sự quản lý ở các doanh nghiệp FDI thì họ đã là lao động toàn cầu rồi, hầu hết là các công ty đa quốc gia. Năm nay họ có thể làm ở Việt Nam nhưng năm sau lại được điều động sang nước khác làm việc. Nó khác hoàn toàn với khái niệm vị trí việc làm để thu hút nhân tài du học nước ngoài về Việt Nam làm việc, lập nghiệp, bổ sung nguồn lao động chất lượng cao, phát triển kinh tế…
Theo TS. Lưu Xuân Cường, chỉ một số ít doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cần nhân lực chất lượng cao vì trình độ sản xuất còn thấp (Ảnh minh họa: NVCC).
Trình độ sản xuất nào thì nhân lực trình độ đó. Chỉ nền sản xuất tiên tiến, trình độ cao mới cần nguồn nhân lực cao và đủ khả năng hấp thu nguồn lao động chất lượng cao là du học sinh nước ngoài về nước làm việc.
Do đó, đế giải bài toán lao động còn phải cân nhắc đến vấn đề trình độ sản xuất. Cần có nhiều hơn các doanh nghiệp Việt chú trọng đầu tư cho chất lượng sản phẩm, dây chuyền sản xuất kỹ thuật cao, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; từ đó, tạo ra những sản phẩm có khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài, đem lại lợi nhuận lớn hơn và tạo ra nhiều vị trí việc làm có mức lương cao hơn.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi thẳng thắn!
Bài: Tùng Nguyên
Ảnh: Hải Long + NVCC
Tin tức An sinh xã hội, thông tin đào tạo việc làm
Nghề cực nhọc, mang lại thu nhập khá cho ngư dân
Nhiều vùng biển tại Quảng Ngãi có ốc gạo, tuy nhiên vùng biển xã Đức Minh, huyện Mộ Đức có sản lượng ốc nhiều nhất, chất lượng ốc cũng đứng đầu. Chỉ riêng xã này đã có 100 hộ dân tham gia bắt ốc.
Mùa khai thác ốc gạo bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng 4 âm lịch. Khoảng 4h, ngư dân vùng bãi ngang bắt đầu ra khơi. Mỗi thuyền có từ 2 đến 3 người.
Dụng cụ bắt ốc được gọi là cào, dài khoảng 8m, nặng hàng chục kg, một đầu cào có khung sắt bọc lưới.
Ốc gạo sống gần bờ. Do đó, ngư dân dùng loại ghe, thuyền công suất nhỏ hành nghề cào ốc nhằm tiết kiệm nhiên liệu.
Thuyền cào ốc gạo hoạt động cách bờ khoảng 500m, vùng biển này có độ sâu 5-6m. Một người đứng ở đuôi thuyền dùng dụng cụ bắt ốc cào xuống lớp cát. Người còn lại điều khiển thuyền chạy tới tạo lực kéo để cào ốc.
Theo ngư dân Nguyễn Tuấn (xã Đức Minh), cào khá nặng lại phải dùng sức ấn đầu cào sâu xuống lớp cát nên rất tốn sức. Mỗi người chỉ cào vài lượt là đuối sức. Do đó, mỗi chuyến ra khơi thường có 3 người thay nhau cào ốc.
“Thuyền của tôi có 3 người, đi từ lúc 5h đến hơn 10h là vô bờ. Hôm nay được gần 3 bao ốc, nặng khoảng 250kg. Đưa thuyền tới bờ là người rã rời, mệt mỏi, đắng cả miệng. Có hôm không ăn cơm nổi”, ông Tuấn chia sẻ.
Khoảng 9-10h hàng ngày, ngư dân đưa thuyền vào bờ bán ốc. Mỗi thuyền thường khai thác được 2-3 bao ốc.
Ốc gạo chỉ to bằng cúc áo, có vỏ sặc sỡ. Ốc được bán theo bao, mỗi bao nặng khoảng 100kg. Tùy vào độ lớn của ốc mà giá dao động từ 1,5 đến 2 triệu đồng mỗi bao.
Ngư dân Nguyễn Duy Phương cho biết, mùa ốc gạo kéo dài hơn 3 tháng, đây là mùa mà ngư dân có thu nhập cao nhất trong năm. Do đó, cư dân bãi ngang coi ốc gạo là “lộc biển”.
“Nghề này cực nhưng cho thu nhập rất khá. Một buổi sáng ra khơi mỗi người kiếm được khoảng 1 triệu đồng. Có thời điểm giá ốc tăng lên 2,5 triệu đồng mỗi bao là thu nhập của chúng tôi cũng tăng lên rất nhiều”, ngư dân Phương nói.
Ốc gạo nấu với sả, ớt là món ăn vặt ưa thích của nhiều người. Do đó, nhu cầu tiêu thụ loại ốc này rất lớn. Thuyền vừa cập bến đã có hàng chục thương lái chờ sẵn thu mua ốc.
Bà Nguyễn Thị Tuyến, một tiểu thương, cho biết bà đến biển Đức Minh từ sáng sớm chờ mua ốc. Mỗi ngày bà mua 50-70kg về bán lại cho tiểu thương các chợ nhỏ ở quê. Một phần bà nấu chín bán kiếm thêm lợi nhuận. Một số người mua số lượng lớn chuyển đi bán ở các tỉnh lân cận như tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng.
Tin tức An sinh xã hội, thông tin đào tạo việc làm
Học sinh nước ngoài ở lại Việt Nam làm việc, giấy phép lao động ra sao?
Đại diện phòng nhân sự của Công ty TNHH Chuỗi cung ứng tiếp vận M.K. (quận Phú Nhuận, TPHCM) chia sẻ, thời gian qua công ty có tiếp nhận người lao động là các sinh viên Lào sang Việt Nam học theo chương trình hợp tác giữa một số tỉnh biên giới.
“Sau khi học xong, lấy bằng đại học Luật do Việt Nam cấp, các cử nhân này muốn vào làm việc tại doanh nghiệp cần làm gì, có được miễn giấy phép lao động?”, đại diện Công ty M.K. thắc mắc.
Người nước ngoài sang học tập và đã được cấp bằng của Việt Nam khi tham gia làm việc tại doanh nghiệp thuộc diện phải xin giấy phép lao động (Ảnh: Xuân Trường).
Giải đáp nội dung này, Sở LĐ-TB&XH TPHCM nêu rõ, khoản 10, Điều 7 Nghị định số 152/2020/NĐ-CP quy định “Học sinh, sinh viên đang học tập tại các trường, cơ sở đào tạo ở nước ngoài có thỏa thuận thực tập trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam; học viên thực tập, tập sự trên tàu biển Việt Nam” thuộc trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
Theo đó, đối với trường hợp người nước ngoài sang học tập và đã được cấp bằng của Việt Nam khi tham gia làm việc tại doanh nghiệp không thuộc trường hợp nêu trên.
“Do đó, doanh nghiệp vẫn thực hiện thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao động theo quy định tại Điều 9 Nghị định 152/2020/NĐ-CP.
Đối với bằng cấp do trường đại học tại Việt Nam cấp thì không phải thực hiện hợp pháp hóa lãnh sự”, Sở LĐ-TB&XH nêu rõ.
Tin tức An sinh xã hội, thông tin đào tạo việc làm
Thương lái ngưng mua 150 tấn tôm hùm bông, người nuôi cay đắng bán lỗ 40%
Vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa trước đây là nơi nuôi tôm hùm bông đứng đầu cả nước, với sản lượng hàng trăm tấn mỗi năm. Tôm hùm được nuôi tại địa phương này chủ yếu để xuất sang thị trường Trung Quốc.
Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc đưa tôm hùm bông vào danh sách “động vật quý hiếm, nguy cấp” và ngưng nhập khẩu, tôm hùm bông ế ẩm nên người dân chẳng còn mặn mà với loài hải sản cao cấp này.
Tôm hùm bông ế hàng vì Trung Quốc ngừng thu mua (Ảnh: Trung Thi).
Ông Võ Văn Thái, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) nuôi trồng thủy sản Vân Phong, cho biết hiện tại người nuôi hầu như không thả mới tôm hùm bông, mà chủ yếu tập trung vào tôm hùm xanh vì loại tôm này Trung Quốc vẫn thu mua ổn định với giá 1,2 triệu đồng/kg.
Nói về 100 tấn tôm hùm bông ế hàng của HTX, ông Thái cho biết, sau sự việc Trung Quốc ngừng thu mua, suốt 5 tháng liền, thương lái thấy tôm hùm bông đều “chê lên, chê xuống”. Do đó, người nuôi phải “gồng nợ” để mua thức ăn cho tôm. Đến dịp trước Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, người dân mới “thoát” được hàng.
“Giá bán thời điểm đó là khoảng 1 triệu đồng/kg, giảm khoảng 40% so với cùng kỳ. Dù giá thấp, nhưng người nuôi vẫn chấp nhận bán vì để lại phải chi phí tiền thức ăn, rủi ro tôm chết… lỗ càng nặng hơn. Hầu hết người nuôi tôm hùm bông năm vừa rồi đều lỗ, nuôi ít lỗ vài trăm triệu, nhiều lỗ hàng tỷ đồng”, ông Thái thông tin.
Ông T., một thương lái thu mua tôm ở Phú Yên, chia sẻ đợt Tết Nguyên đán vừa qua, nhóm của ông đã hỗ trợ tiêu thụ cho người nuôi ở Khánh Hòa khoảng hơn 120 tấn tôm hùm bông.
“Giá tôm hùm bông lúc đó rẻ hơn tôm hùm xanh, nhưng thịt lại ngon nên khách nội địa tiêu thụ mạnh. Ngoài ra, thương lái cũng tìm đường tiêu thụ tiểu ngạch để giải quyết bớt hàng cho bà con”, ông T. nói.
Thương lái thu mua tôm hùm ở Phú Yên (Ảnh: Trung Thi).
Ông Trần Văn Thơm, Phó Giám đốc HTX tôm hùm Sông Cầu (Phú Yên), cho biết nuôi tôm hùm bông tốn chi phí, thời gian gấp đôi tôm hùm xanh nhưng hiện nay tiêu thụ rất khó, nên người nuôi không còn mặn mà.
Phó Giám đốc HTX Tôm hùm Sông Cầu cho rằng, người nuôi tôm hùm đang rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn, do đó kiến nghị các cơ quan chức năng sớm vào cuộc quy hoạch vùng nuôi, cung cấp con giống có xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng để từ đó con tôm hùm được xuất khẩu chính ngạch, giá bán mới ổn định, kinh tế người dân phát triển.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguyên nhân khiến tôm hùm bông ế hàng là do tháng 5/2023, Trung Quốc cập nhật danh mục các loài động vật hoang dã cần được bảo vệ và tôm hùm bông nằm trong danh sách này.
Đến tháng 8/2023, việc xuất khẩu tôm hùm bông qua Trung Quốc bị ngưng trệ do hải quan các cửa khẩu kiểm soát chặt tôm hùm bông khai thác tự nhiên nhập khẩu.
Cụ thể, Trung Quốc không nhập khẩu tôm hùm bông khai thác tự nhiên, chỉ nhập khẩu tôm hùm bông nuôi có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Trong đó, con giống được khai thác từ tự nhiên đưa vào nuôi cũng bị xem là sản phẩm tôm hùm tự nhiên.
Với việc Trung Quốc ngừng thu mua, tôm hùm bông mất khoảng 40% giá so với cùng kỳ (Ảnh: Trung Thi).
Trong khi đó, con giống tôm hùm bông ở các tỉnh Nam Trung Bộ có được đều nhờ đánh bắt tự nhiên nên phía Trung Quốc không thu mua. Từ đó, giá tôm hùm bông giảm khoảng hơn 40%, nhưng vẫn không có người mua.
Tháng 12/2023, Sở Công Thương tỉnh Khánh Hòa có văn bản gửi Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc hỗ trợ, kết nối tiêu thụ 150 tấn tôm hùm bông ế ở tỉnh này.
Tin tức An sinh xã hội, thông tin đào tạo việc làm
- « Previous Page
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- …
- 12
- Next Page »